Bà Từ Dũ là một bậc hiền phụ ở nước ta vào cuối thể kỷ XIX.
Tên bà là Phạm Thị Hàng, hoặc Hào; trưởng nữ của công thần triều Nguyễn Phạm Đăng Hưng và bà Phạm Vân thị (không rõ tên). Bà là vợ của Hiền Tổ Chương hoàng đế (vua Thiệu Trị).
Bà sinh ngày 19-5 năm Canh Ngọ (1810), nguyên quá Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (Nam phần).
Lúc nhỏ, bà đã tinh thông kinh sử, có tiếng là hiền đức và chí hiếu.
Từ năm 14 tuổi, bà được Thuận Thiên Cơ Thái hoàng Thái hậu, vợ kế vua Gia Long, tuyển triệu vào chầu hầu cháu trai là Hoàng Thái tử Miên Tông ở tại Tiềm đế.
Năm 1841, khi Miên Tông lên ngôi 8tức vua Thiệu Trị), bà được phong làm Cung tần. Hai năm sau (1843), được sắc phong làm Thành phi. Qua đầu năm Thiệu Trị thứ 6, 1846, được phong làm Quí phi, rồi Nhất giai phi.
Ở nội cung, bà hết sức chăm lo nuôi dậy các Hoàng tử và các công chúa, thường được ban khen.
Năm thứ 7 (1847), vua Thiệu Trị bịnh nặng; chưa kịp sách lập cho bà làm hoàng hậu thì vua mất.
Vua Tự Đức lên ngôi, nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ nhưng bà Từ Dũ nhất mực từ chối. Mãi đến ngày 15 tháng 4 năm Tự Đức thứ 2 (1849), nhân khánh thành cung Gia Thọ, bà mới thuận nhận tôn hiệu Hoàng Thái hậu.
Tính nhân từ, vào dịp ngũ tuần khi vua Tự Đứng cùng đình thần dâng sớ khẩn thỉnh tấn tôn huy hiệu mỹ tự, bà dụ rằng: ” … Ta đã được Thiên hạ phụng sự, thì nên lo những việc thiên hạ đương lo. Năm nay chưa đều đặng mùa, nhân dân chưa đều được vui sướng, chính lúc Hoàng đế phải chăm lo, lòng ta nào nỡ thản nhiên. Vả lại tánh ta vốn tiết kiệm ước chẳng chuộng phù hoa, không ngờ ngày này hưởng được tôn vinh, ta thường e sợ, tu tĩnh chẳng rồi, để ta còn nặng cái lỗi thất đức hay sao? Vậy thì sớ tỉnh ấy nên bãi đi, chỉ nguyện chư công và quần thần lo giúp chính trị giáo dục thế nào cho ta được thấy thạnh trị thái bình, thì không chi vui bằng …”
Lo lắng đến cuộc sống của nhân dân, bà thường hỏi vua Tự Đức về việc quan lại đắt thất và bảo ban những điều hết sức thiết thực về chính trị. Năm 1874, khi hay tin Pháp xâm chiếm toàn cõi Nam Kỳ và buộc triều đình Huế ký hòa ước nhượng địa, bà bỏ cả ăn uống, mặt ủ mày chau theo vận nước ngửa nghiêng.
Tháng 6 năm Quí Mùi (1883), vua Tự Đức mất, để di chiếu tôn bà làm Từ Dũ Thái hoàng thái hậu.
Kinh thành thất thủ (1885), bà cùng với bà Hoàng thái hậu và Hoàng thái phi, vợ vua Tự Đức, theo vua Hàm Nghi xuất bôn. Bà đến Quảng Trị, theo lời cầu xin của vua Hàm Nghi bà và Lưỡng cung lại trở về Huế.
Vua Đồng Khánh lên ngôi, phong bà mỹ hiệu là Từ Dũ Bác Huệ Thái hoàng thái hậu.
Ngày mồng 5 tháng 4 năm Tân Sửu (1901), bà mệnh chung, thọ 93 tuổi, tôn thụy là Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dũ Bảo Huệ Trai Túc Tuệ – Đạt Thọ Đức Nhân Công Chương Hoàng hậu.