– Mình thường cảm thấy được che chở khi có một điều gì đó tốt đẹp xảy ra, khi Chúa vươn tay và chạm vào cuộc sống của mình bằng cách mà mình có thể nhìn thấy và cảm nhận được! – Tôi nói với một người bạn. – Lúc này đây, mình thấy mình thật may mắn khi cưa gặp phải chuyện gì quá tệ!
– Mình biết cậu muốn nói gì. – Bạn tôi nói. – Mình cũng nhớ đến những tháng ngày may mắn ấy khi nhận được Chúa ở bên cạnh chúng ta!
Chúng tôi nhớ lại khoảng thời gian bình yên – đó là khoảng thời gian mà mỗi người đều được đón nhận trong cuộc đời. Sự may mắn tựa như dòng nước vậy, có những dòng chảy êm đềm, lờ lững, lại cũng có những dòng xối xả, mạnh mẽ. Đôi khi điều kỳ diệu tình cờ đến với mỗi người chúng ta và rồi một lúc nào đó nó lại đột nhiên biến mất.
Trong cảm nhận của tôi, hình ảnh về một đấng toàn năng luôn có sự thay đổi rất đặc biệt. Trước khi lên năm tuổi, tôi nghĩ rằng Chúa là vĩ đại nhất. Bảy năm sau đó tôi lại nghĩ khác. Những biến cố dồn dập đến với gia đình tôi. Cha tôi bỏ đi. Người anh trai và chị Ieanne cũng ra đi. Mẹ phải nặng gánh vì tôi. Tôi cảm thấy rất buồn vì mẹ luôn đánh tôi bằng roi da mỗi khi bà ấy muốn được tự do. Có quá nhiều điều đau lòng xảy ra đối với các thành viên trong gia đình tôi. Tôi phải nghỉ học ở nhà hai năm, không bạn bè, không anh chị, không gia đình. Chỉ có những quyển sách và ti vi làm bạn cùng tôi. Năm tôi khoảng 12 tuổi, một buổi sáng Chủ nhật khi bước chân vào nhà thờ, tôi chợt nghĩ: “Mọi người đều làm dấu thánh giá và tin rằng Chúa là tình yêu. Nếu Chúa thật sự là tình yêu, sao chẳng còn chút yêu thương nào dành cho mình?”
Từ đó trở đi, thay vì đi lễ nhà thờ vào sáng Chủ nhật, tôi tìm cách trốn vào một góc nào đó và hút thuốc. Khi về nhà, tôi luôn bịa ra một lý do nào đó cho những câu hỏi của mẹ.
Tôi đinh ninh rằng tôi có thể tự làm cho cuộc đời mình tốt hơn. Mười hai năm trôi qua thật nhanh. Khi 24 tuổi, tôi trở thành một kẻ nghiện ngập.Tôi đã trộm ma túy ở cửa hàng trong suốt sáu tháng để có thể hút chích cùng bạn trai của mình. Cả hai chúng tôi đều trả giá. Anh ấy đã ngồi tù. Những năm của thập niên 60 tuổi nổi cộm ba vấn đề là sex, ma túy và nhạc rock của Rolling Stones. Nhiều người mải mê chạy theo chúng. Sang thập niên 70, vấn nạn lớn của xã hội là nghiện rượu hoặc ma túy. Và tôi là một trong số đó. Thực ra, nếu được giúp đỡ, tôi vẫn có thể làm những điều mà nhiều người bình thường khác không làm được như giúp đỡ những con nghiện khác chẳng hạn. Lúc này, trong tôi luôn mặc cảm về tội lỗi và khao khát xóa bỏ quá khứ lỗi lầm của mình. Tôi bắt đầu có niềm tin vào con người, vào cuộc đời. Dường như một cơn sóng dữ vừa đi qua cuộc đời tôi.
Một vị thẩm phán nhân hậu và từng trải đã cho tôi lựa chọn: hoặc vào tù hoặc đi cai nghiện. Tôi đã chọn cai nghiện. Nhưng chỉ sau vài tah1ng ở trại, tôi lại tái nghiện. Tôi không biết phải làm gì để cắt đứt những cơn nghiện đó. Vào một sáng, người quản lý đến thăm tôi. Anh ta đã giúp tôi trải qua đợt điều trị không dễ dàng gì.
Tôi và người quản lý đã trò chuyện với nhau rất lâu. Anh ấy động viên tôi rất nhiều. Tôi vượt qua được những cơn nghiện nhưng không cảm thấy mình được giải thoát. Tôi chỉ thấy tội lỗi và sợ hãi. Đó cũng là cảm giác mà rất lâu rồi tôi mới có lại được. Tôi cũng không hiểu cảm giác ấy từ đâu đến. Sau khi anh ta đi, tôi ngồi trên giường và nhìn lên trần nhà, lầm bầm: ”Chúa ơi, con không biết Người có ở đó không và có quan tâm đến con không, nhưng nếu Người ở đó và còn quan tâm đến con và nếu có cách nào đó có thể giúp con cai nghiện, xin Người hãy giúp con”.
Tất cả vẫn lặng im. Vài ngày sau, tôi ngồi trên sàn bệnh viện và hút thuốc. Rồi tôi nằm ra đất và nhìn lên bầu trời. Trên ấy là những đám mây và một điều kỳ lạ đã xảy ra. Bầu trời và những đám mây bỗng nhiên chuyển sang màu đỏ nhạt, rồi đậm dần. Một linh cảm chợt nảy sinh trong tôi. Tôi hiểu rằng đã đến lúc tôi không có quyền sử dụng ma túy nữa. Tôi không cho phép mình làm điều đó. Cũng từ giây phút ấy tôi đặt toàn bộ quyết tâm của mình vào cuộc chiến đấu với bản thân và làm mọi cách để cai nghiện.
Lần này, tôi cảm nhận rõ có một sự thay đổi từ bên trong con người mình. Tôi bắt đầu thay đổi và tập thích nghi dần. Tôi cảm thấy mình đang trở thành một con người hoàn toàn khác với con người của tôi trước đây. Tôi vẫn tin rằng Chúa hiện hữu và nghe thấu lời cầu xin của tôi. Nhiều năm sau đó, tôi vẫn chưa kể cho ai nghe câu chuyện của mình. Tôi vẫn còn ở trong trai và nếu tôi kể cho ai đó nghe câu chuyện về bầu trời và những áng mây đổi màu hay việc tôi đã trò chuyện với Chúa ra sao, có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ được ra trại nữa. Nhưng cảm giác mình vẫn còn được quan tâm đã ở cùng tôi suốt mười tám năm sau đó. Bên cạnh niềm tin vào đấng tối cao, bản thân tôi đã nổ lực thực sự để tự cứu mình. Và sau đó Shane mất.
Tôi nghĩ rất nhiều. Nếu bạn từng bị mất người thân, tôi nghĩ bạn cũng sẽ cảm nhận được những điều như tôi cảm nhận mà thôi. Người ta vẫn nói rằng mất con là nỗi đua lớn nhất. Tôi cũng cảm thấy như vậy và một lần nữa tôi lại đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều muốn mình là người đặc biệt của ai đó. Tôi thì chưa bao giờ có được điều này cho đến khi tôi được điều trị vào năm 1973.
”Chúa không mang Shane của chị đi đâu” – nhiều người đã an ủi tôi khi tôi chia sẻ cảm xúc của mình. ”Có lẽ Chúa không làm thế thật nhưng Ngài có thể ngừng tai nạn của Shane lại nếu Ngài muốn, tại sao Ngàu không làm điều đó?” Chẳng ai có thể thay đổi suy nghĩ của tôi.
Tôi mất cảm giác rằng mình được che chở nữa. Với tôi, người được che chở là người dù đối diện với cái chết nhưng vẫn thoát chết hoặc dù lâm trọng bệnh nhưng vẫn có thể hồi phục. Chỉ có những trường hợp như vậy mới đúng với cảm giác được che chở là như thế nào.
Isaac và tôi sống trong cùng một khu nhà. Tôi ở căn bên trái, còn Isaac ở căn bên phía cầu thang bên dưới. Gia đình Isaac đến từ Israel. Isaac chuyển đến sống ở đây khi anh ấy 19 tuổi. Anh ấy đã lập gia đình và ly hôn hai lần. Anh ấy làm nghề kinh doanh và công việc kinh doanh của anh ấy khá phát đạt. Giờ thì anh ấy đã lớn tuổi và thích cuộc sống bên biển như hiện tại.
Cũng như Isaac, được sống gần biển luôn là niềm yêu thích của tôi. Nhiều năm liền, tôi thường lái xe do5ctheo con đường bờ biển, thầm nghĩ đây chính là nơi tôi mơ ước. Tôi biết mình chẳng có đủ tiền để mua nhà nên cũng không mấy bận tâm. Rồi một ngày, một người phụ nữ xuất hiện và bà ta muốn bán căn hộ của mình. Bà ấy cần tiền gấp, căn hộ lại nằm ngay trên con đường mà tôi vẫn ao ước được sống ở đó. ”Chắc hết cách rồi” – tôi nói khi nghe đến giá của căn hộ- ”điều đó thật khó trở thành hiện thực”. Nhưng rồi tôi cũng cố gắng mua được căn hộ đó.Sau khi có nó, cuộc sống quá chật vật khiến tôi phải nghĩ đến chuyện bán nó đi. ”Cậu không muốn ở đó sao?” – một người bạn hỏi tôi. ”Căn hộ này đến với tôi như một món quà của Thượng đế”, nghĩ đến đó, tôi từ bỏ ý định bán nó;và giờ đây nó trở thành nơi trú ngụ êm đềm của tôi.
Vào tối hôm trước khi Shane mất, tôi đã gần như thỏa thuận xong việc mua một căn hộ mới. Nhưng rồi Shane mất đi, nhiều năm sau đó tôi không còn nghĩ đến chuyện này nữa. Tôi trở thành kẻ ở trọ. Thâm tâm tôi muốn mua một căn nhà có liên hệ đến cái chết của con trai mình. Mãi đến khi ký tờ hợp đồng mua căn hộ bên bờ biển , tay tôi bỗng nhiên run lên, mắt tôi nhòa nước. – ”Chuyện gì vậy nhỉ?” – Tôi thầm nghĩ. Và rồi tôi nhận ra rằng tôi từng sợ, không dám mua căn nhà này trong nhiều năm chỉ vì tôi nghĩ rằng tôi sẽ lại mất đi ai đó nữa.
Tôi treo một túi may mắn của người Do Thái lên cửa khi chuyển đến căn hộ mới. Tôi không phải người Do Thái nhưng tôi cần đến sự may mắn. Một người đàn ông cao lớn, mảnh khánh mặc đồ bơi đi ngang qua và chào tôi.
– Tôi là Isaac. – Ông ấy mở lời trước. – Tôi sống ở cạnh đây. Tôi rất vui vì bà cũng sống ở đây.Chào mừng bà đến khu nhà này!
Isaac và tôi đi dạo một lát. Rồi tôi ngồi vào màn hình máy tính, cố gắng bắt tay vào viết một điều gì đó. Isaac đi ngang qua và nhìn vào cửa sổ nhà tôi. ”Bà đang bận à?” – Ông ấy gần như hét lên qua cửa kính. ”Vâng” – Tôi nói. – ”Tôi cần nói chuyện” – Ông ấy nài nỉ. Rồi ông ấy đứng trước cửa chính và đợi cho đến khi tôi mở cửa. Chúng tôi trở thành những người bạn láng giềng. Chỉ có ba chúng tôi sống trong khu nhà này, vì thế chúng tôi có mối quan hệ khá thân thiết. Isaac thường đưa ra mọi chuyện và hỏi ý kiến tôi. Nếu đó là một việc không liên quan gì đến tôi, tôi thường đồn ý với ông ấy.
Một ngày nọ, khi người quản gia và tôi đang lau dọn ga-ra, chúng tôi tìm thấy một thùng sách Những bài học của Tình yêu, quyển sách đầu tiên tôi viết sau cái chết của con trai tôi. Tôi đã mua chúng từ nhà xuất bản. Đó là một quyển sách khó viết, càng khó để đọc. Nó khiến người đọc phải khóc. Tôi đã nói với phía nhà xuất bãn ”Chẳng có ai muốn đọc quyển sách về cái chết của một đứa trẻ cả”. Nhưng họ động viên tôi rằng: ”Hãy viết đi”.
– Chúng ta làm gì với những quyển sách này đây? – Người quản gia hỏi tôi.
– Làm bất cứ điều gì chị muốn! – Tôi nói. – Nó là của chị đấy!
Isaac kể rằng năm ông ấy được chẩn đoán bị ung thư và người vợ sau ly dị với ông thật kinh khủng. Đó là những biến cố chẳng dễ gì vượt qua. Đầu tiên, ông nhận được bản xét nghiệm rằng ông bị ung thư gan và cần phải ghép gan. Cuộc phẫu thuật ghép tạng vô cùng phức tạp. Khắp người ông đầy các ống dẫn. Sau cuộc phẫu thuật, ông bị viêm phổi. Loại thuốc họ đưa ông uống để chữa bệnh phổi lại khiến ông bị điếc. Ông phải mất khoảng một năm để học cách đọc ý nghĩa từ hình dáng mấp máy của môi. Những điều ông ấy làm được bây giờ giống như một pép màu, dù rằng chỉ là những ciệc nho nhỏ như việc có thể dùng nhà vệ sinh thay vì phải đeo một túi bên mình. Bác sĩ nói rằng họ phải phẫu thuật lần nữa để tránh chứng trào ngược thực phẩm từ dạ dày của ông. Nhưng phẫu thuật nữa cũng có nghĩa là ông lại phải ở bệnh viện và phải mất một thời gian dài ới có thể hồi phục. Isaac đã quá đuối sức sau ca ghép gan, ông không muốn phải mổ nữa. Lần này thì ông thực sự thấy hoang mang và lo lắng.
Rồi Isaac phải nằm trên giường cả ngày. Lần này, bác sĩ đặt một thiết bị vào tai ông để ông có thể nghe những âm thanh căn bản nhất. Ông gần như có thể nghe tiếng sóng vỗ vào bờ. Với ký ức về tiếng sóng biển, âm thanh yếu ốt mà ông nghe được giống như một khúc nhạc mở đầu. Quãng thời gian điều trị ở bệnh viện, ông bắt đầu làm thơ. Ông viết những bài thơ bày tỏ sự biết ơn gia đình, rồi thơ về cuộc đời mình. Ông tự xem mình chỉ như một của trước kia nhưng vẫn nghĩ mình là một ngày may mắn. ”Đôi khi tôi quên rằng mình đang sống bằng lá gan của ai đó” – ông tâm sự. ”Thỉnh thoảng tôi cũng quên luôn các ống dẫn lòng thòng này và cũng quên rằng mình bị điếc”. Isaac đã tìm lại được một phần con người của ông ấy trước đây, một phần mà chúng ta không thề đánh mất.
Isaac đã phải chiến đấu với bản thân để tiếp tục sống. Con cái của ông dều đã trưởng thành và luôn muốn có ông bên cạnh. Bản tính của Isaac vốn không bao giờ chịu đầu hàng số phận. Suốt cuộc đời mình, ngay từ khi còn là một đứa trẻ ở Isreal. Isaac luôn là một người dũng cảm. Và sau này cũng vậy, ông ấy luôn làm tất cả để hồi phục, để được đi dạo dù chỉ là một quãng đường ngắn thôi. Ông ấy cảm thấy vui khi có thể ngồi dậy và đi khắp nhà.
Người quản gia nhà ông đưa cho ông một quyển sách. Bà ấy có nó từ người quản gia của gia đình bên cạnh. Ông ấy đã đọc xong quyển sách ngay trong ngày hôm đó. Ông đã cố ngủ nhưng không thể không nghĩ về cuốn sách đó. Ông đã trải qua rất nhiều thử thách và lúc này đây bỗng nhiên ông cảm thấy mình được che chở.
Tôi phải nằm liệt giường hàng tháng trời. Lưng tôi đau buốt. Tôi được đưa đi phẫu thuật tận Đức để các bác sĩ đưa vào người tôi hai đĩa đệm ở xương sống. Những cái đĩa đệm nhân tạo này là cơ hội duy nhất để tôi duy trì một cuộc sống bình thường. Tôi chợt nghĩ đến Isaac – người hàng xóm của tôi và những điều ông ấy phải trải qua: ghép gan, sống gần một năm trong bệnh viện với những ống dẫn, túi đeo khắp người. Và bi kịch nhất là ông ấy không còn nghe được nữa. Tôi ngưỡng mộ ý chí và sự quyết tâm giành lại sự sống của ông ấy. Tôi đến thăm Isaac khi ông ấy từ bệnh viện về. Ông ấy khoe với tôi những bài thơ ông đã viết trong suốt thời gian ở đó. Điều ấy khiến tôi không khỏi ngạc nhiên. Tôi đọc thơ của ông – những bài thơ tràn đầy cảm xúc được viết từ những gì rất thực, rất thấm thía. Isaac nói rằng một ngày nào đó, ông lại có thể đi dạo. Tôi thì không chắc lắm về điều này. Vào dịp lễ Giáng sinh với tôi và lễ Hanukkah với ông ấy, tôi gửi cho ông ấy một tấm thiệp với lời nhắn: “Ông chính là nguồn động viên lớn lao mà tôi có được. Cảm ơn vì ông đã mang đến cho tôi niềm tin và sự can đảm”.
Isaac thật sự hạnh phúc vì ông ấy lại được sống.
Bất cứ khi nào tôi cảm thấy thương cảm cho chính mình, những ý nghĩ về Isaac lại hiện về và tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Nhưng lúc này đây có lẽ điều ấy không còn giúp được gì cho tôi nữa. Toàn thân tôi nhức nhối. Bệnh tật hành hạ tôi về từ nhiều tháng nay. Dù đã tìm đến những bác sĩ giỏi nhất nhưng chẳng ai trong số họ có thể làm dịu bớt cơn đau của tôi. Chẳng ích gì. Đó cũng là khoảng thời gian tệ nhất trong năm, gắn liền với sinh nhật và ngày mất của Shane. Một sự tru2nh hợp kỳ lạ. Bệnh tật và nỗi nhớ Shane khiến tôi càng thêm đau đớn. Tôi cảm thấy con trai mình chỉ mới ra đi thôi, trong khi thực tế mất mát ấy xảy ra cách đây đã mười bốn năm.
Tôi ngồi trên chiếc ghế dài, lặng ngắm những tấm hình của Shane. Có tấm, con trai tôi quỳ gối, mặc chiếc áo thể thao màu xanh với quả bóng trong tay. Tại sao tôi đã không đi xem thằng bé thi đấu nhiều hơn nhỉ? Chắc chắn tôi sẽ làm thế nếu tôi biết rằng con trai mình sắp đi xa mãi mãi. Còn đây là tấm hình thằng bé đã tặng tôi trong Ngày của Mẹ cuối cùng của nó. Bạn bè nó lấy đây là tấm hình để tưởng nhớ nó. Tôi đốt những cây nến xung quanh một vòng hoa tươi, xem đây như một cách để tưởng nhớ đến ngày sinh và ngày mất của con trai. Hai sự kiện liền kề nhau khiến tôi quá đỗi đau lòng. Tôi biết là Shane không thích thấy tôi khóc. Thằng bé luôn muốn tôi vui vẻ và hạnh phúc.
Sau khi Shane mất, nỗi đau của tôi như càng chồng chất khi những tin xấu khác cứ dồn dập đến. Đầu tiên là tôi biết tin mình bị nhiễm viêm gan siêu vi C. Phải mất hai năm sau tôi mới lấy lại được thăng bằng và quyết định chung sống với nó. Khi cuộc sống của tôi dần trở lại bình thường thì lưng tôi lại có vấn đề. Tôi thật sự suy sụp. ”Nếu cuộc đời muốn hủy hoại tôi thì nó đã làm được rồi đó” – Tôi thầm nghĩ.
Đôi lúc tôi cảm thấy giận Chúa, bởi những gì tôi phải chịu không chỉ là nỗi đau mất mát mà còn là cảm giác cô độc giữa cái thế giới rộng lớn này. Tôi đã phải nằm trên chiếc ghế này quá lâu do những cơn đau hành hạ. Trong tôi là cảm giác lạc lõng, chẳng còn thấy một ai thân quen bên cạnh. Tính khí tôi trở nên thất thường.
Cốc, cốc, cốc.
Có tiếng gõ cửa. Lúc này mắt tôi sưng đỏ vì khóc, gương mặt tôi nhòa nước mắt. Tôi chẳng muốn ai nhìn thấy mình lúc này cả. Tôi lấy tay áo quệt nước mắt.
Tiếng gõ cửa lại vang lên. Tôi ra mở cửa. Isaac – đúng là ông ấy. Ông ấy đang đứng trước cửa nhà tôi, trên người đầy những túi và dây nhợ lỉnh kỉnh. ”Ông đi được rồi ư?” – Tôi reo lên trước mặt ông ấy và ông có thể đoán được tôi đang nói gì. ”Tốt quá!” – Tôi lại nói tiếp.
Isaac cũng cảm thấy tự hào về chính mình. Ông nói với tôi rằng ông đã có thể đi lại được. Tôi dẫn ông vào phòng khách. Tôi chẳng biết phải làm gì cho ông và mớ dây dọc ngang trên người ông.
– Có phải đây là lần đầu tiên ông đi lại được không? Ông thấy ổn chứ?
Ông ấy nói rất to, như cách những người điếc thường làm vì họ không thể nghe giọng nói của chính họ:
– Người quản gia đưa cho tôi một quyển sách. Quản gia của bà đã đưa nó cho bà ấy. Tôi vừa đọc xong và không thể chợp mắt. Tôi không biết rằng bà đã mất đứa con trai. Tôi xin lỗi về sự vô tâm của mình.
Ông Isaac đứng đó, loạng choạng, nước mắt chảy dài trên má.
– Tôi đã trải qua rất nhiều nỗi đau nhưng nỗi đau mất con thì chưa bao giờ! Các con tôi vẫn sống khỏe mạnh. Tôi không thể ngủ được. Tôi phải sang đây để gặp bà và muốn trao cho bà một cái ôm đồng cảm. – Ông giải thích.
Với mớ dây dắt díu trên người, ông đưa cánh tay gầy yếu lên và ôm tôi thật nhẹ. Tôi cảm thấy một điều gì đó thật kỳ diệu khi chạm vào cánh tay ông! ”Nếu ông ấy có thể hồi phục và đi lại được thì tại sao tôi lại không mạnh mẽ lên để chống chọi với căn bệnh của mình?” – Tôi tự hỏi. Chúng tôi xứng đáng được hưởng một cuộc sống bình yên, cho dù chúng tôi phải trải qua chuyện gì đi nữa.