Cụ bà Sào Nam – Phan Bội Châu

Bà Phan Bội Châu, họ Thái, tên Huyện (1865-1936), con cụ Thái Văn Giai, một nhà túc nho; ở làng Diên Lam, huyện Nam Dân, tỉnh Nghệ An, bạn học với cụ thân sinh cụ Sào Nam.

Bà lớn hơn cụ một tuổi, nghĩa là sanh trước mấy tháng. Hai cụ già thân sinh đính hôn ngay từ lúc mới một tuổi. Năm bà hai mươi ba tuổi về làm dâu nhà cụ Phan, sau khi bà thân sinh cụ đã mất tám năm.

Nhà nghèo, cụ chuyên nghề dạy vẽ, thường năm không ở nhà, trong nhà trên thờ cha già, dưới nuôi con dại, chỉ hai tay với cái gánh trên vai. Bà quán xuyến cả trong gia đình, không bao giờ để cho chồng phải bận tâm lo nghĩ đến chuyện nhà chút nào cả.

Trường trải mười mấy năm dư, cụ đi dạy trẻ, gầy bạn đồng chí, bà ở nhà lo chăm sóc việc nhà, nuôi ông cha già bịnh hoạn, đến năm ba mươi bốn tuổi, cụ Sào Nam mới đỗ giải nguyên thì năm ấy vụ thân sinh mất.

Ai cũng biết khoa mục đất Nghệ An thời bấy giờ, người ta quí chuộng là dường nào. Huống hồ danh tiếng học giỏi, yêu nước lừng lẫy như cụ Phan, lại đỗ Giải Nguyên, thì theo thường tình thiên hạ đàn bà được một đức ông chồng như thế thì tha hồ tự do bước lên cái thang quan sang, cho vợ nhà được sung sướng, bõ công khó nhọc lâu nay, được VÕNG ANH ĐI TRƯỚC, KIỆU NÀNG ĐI SAU.

Nhưng cụ Phan tuyệt nhiên không có ý đó, mà bà cũng hiểu rõ ý chí chồng mình là thế nào rồi: cụ Phan sở dĩ cố giựt cho được cái Giải Nguyên, không phải ham gì cái khoa danh bảng, song ở trong cái xã hội đầy không khí “SÙNG THƯỢNG KHOA HỌC” mà không mang cái vỏ bề ngoài ấy thì không ai thèm kính trọng, nghe theo chủ nghĩa mong muốn của mình, nên cụ Phan muốn có cái lốt đó để tiện việc tiếp xúc trong nhân sĩ, nhân quần đấy thôi.

Cụ có chí lo việc nước từ lúc nhỏ song chưa thi thố được là vì còn độc đinh, nhà thời còn có cha già, chưa tự tiện hiến thân mình cho đất nước, hai là vì ở trong xã hội còn chìu chuộng khoa cử, mà thân còn mang cái xác “ĐỒ GÀN” nói không mấy ai nghe. Nay có cái lốt Giải Nguyên, đã có cái vỏ để giao thiệp với đời, để cổ động chủ nghĩa yêu nước, chống xâm lăng của mình rồi.

Khi cụ thân sinh mất, không còn gánh nặng gia đình trên vai nữa. Bắt đầu từ đó, cụ tự do vào Nam ra Bắc, suốt năm, sáu năm không hề về nhà. Mà mỗi lần có về là ngày nào cũng có dẫn theo đám khách đông đúc. Vậy mà một tay bà Phan, nào lo việc nhà, phần lo buôn bán tảo tần, phần nuôi con dại, phần lo đãi khách. Dù nhọc nhằn túng quẫn, thế mà bà không khi nào tỏ sắc buồn than, hờn dỗi hay thốt một câu gì làm phiền đến lòng chồng.

Đến năm 59 tuổi, cụ Phan bị bắt đem về nước, rồi được thả về Huế chỉ được gặp bà có nửa giờ đồng hồ tại thành Vinh, cùng nhau nói một câu chuyện. Sau cụ về Huế, cụ bà về quê cho đến ngày bà mất.

Bà mất ngày Mồng Một tháng tư năm Bính Tý (22 Mai 1936), thọ được 71 tuổi. Sau cụ Phan xuất dương, bà ở nhà với bà Hai (tức vợ thứ cụ) và hai cậu con, bị chính quyền Pháp và Nam nghi ngờ, cũng vất vả gian truân thế nào, điều ấy không nói tất nhiên ai ai cũng rõ, và tiểu sử của bà thế nào đã có bài văn tế cụ Phan khóc bà sau đây nói rõ.

Làm một người đàn bà, được có một đức ông chồng học giỏi, đỗ cao, tên tuổi, ái quốc thương nòi, rõ là đức riêng của mình, cái danh dự “VÕNG TRƯỚC KIỆU SAU” vợ phong con ấm mà thế tục yêu thích, nếu làm hạnh phúc chính ở nơi mình đức ông chồng đó. Vậy mà bà đành lòng chịu khổ trọn đời trong cảnh chua cay, đành nhượng ông chồng quý hóa kia cho giang san quốc tổ làm của chung cho nước nhà, nòi giống, tuyệt không có chút tơ tóc buộc ràng làm bận rộn đến chồng, thật ít có thay!

Ở trong áo vải chăn nâu, ẩn núp cái lòng trong sạch cao cả của cái tiết cao thượng, cái chí khảng khái, tức cho rằng cái tên chí sĩ Phan Bội Châu có nửa phần của bà trong ấy, cũng không phải là quá.

Lúc bà chết, nhiều đồng chí với cụ Phan gửi điếu văn đến khóc bà rất đông. Đây, chúng tôi xin lược vài câu để các bạn biết rõ bậc hiền phụ ấy, rất xứng đáng làm khuôn mẫu cho chị em chúng ta đến bực nào.

Câu đối của Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng, phúng điếu cụ bà Phan Bội Châu:

LÃO TIÊN SANH VỊ QUỐC VONG GIA, THẤP NIÊN TÚC LỘ XẠNG PHONG, CẨM BAN HOÀNH QUA DUY Ý LỢI (1) THẾ TRẦN TỊCH CỌNG.

Dịch Nôm:

Hiền nội tướng hữu phu nhi quả, chin phủ trì gia phủ ấu sơ∆n đầu hóa thạch, tỷ Kiềm Lâu (2) phụ khổ thoan đa.

LÃO TIÊN SANH VÌ NƯỚC QUÊN NHÀ, BA MƯƠI NĂM ĂN GIÓ, NẰM SƯƠNG, BÊN GỐI KỀ GƯƠM, CHIỀU SỚM BẠN CÙNG NÀNG Y LỢI.

Câu đối của cụ Sào Nam Phan Bội Châu khóc cụ bà,

– Câu đối chữ Hán dịch ra Quốc văn –

TRẤP DƯ NIÊN CẦM SẮT BÁT TƯƠNG VĂN, THẾ PHONG KHỔ VŨ, CHỈ ẢNH VI PHU, NHỨT TƯỚNG SẴN NHI HUY NHIỆT LỆ.

CỬU TUYÊN HẠ THÂN BẰNG NHƯ KIẾN VẤN, ĐIỀN HẢI DI SƠN, HỮU THÙY TƯƠNG BÁ, THIÊN XAI LÃO HÁN BÃ KHÔNG QUYỀN.

Dịch Nôm:

BA MƯƠI NĂM CẦM SẮT KHÉO XA NHAU, MƯA SẦU GIÓ THẢM, CHỈ BÓNG LÀM CHỒNG, NGỒI NGÓ TRẺ CON RÔI LỆ NÓNG.

DƯỚI CHÍN SUỐI THÂN BẰNG NHƯ HỎI ĐẾN, LẤP BIỂN DỜI NON, NÀO AI GIÚP BÁC, CHỈ CÒN MÌNH LÃO MÚA TAY KHÔNG.

KHEN KHÉO GIỮ NỀN TỨ ĐỨC, NGOÀI BẨY CHỤC TUỔI SỐNG ĐAU HƠN CHẾT, THÔI VỀ MAU CHO KHỎE, ĐỀN CÔNG TRẢ NỢ NẶNG VAI CON.

Chú thích:

(1) Ý Lợi thê (Cavour) danh tướng nước Ý trọn đời không có vợ, thường nói TA LẤY NƯỚC Ý ĐẠI LỢI LÀM VỢ.

HIỀN PHU NHÂN CƯ CHỒNG MÀ GÓA. MỘT MÌNH CH∆∆ẮC CHĂM NHÀ NUÔI TRẺ, ĐẦU NON HÓA ĐÁ, CAY CHUA SẮP MẤT VỢ KIỀM LÂU.

(2) Kiềm Lâu liệt nữ truyện: Kiềm Lâm là một cao sĩ, nhà nghèo có người vợ hiền.

CỤ SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU kể lược sử bà cho hai con trước khi bà mất

Này con! Chúng con ơi!

Cha e chết ở rầy mai, có lẽ mẹ mày không được một phen gặp nhau nữa!

Nhưng nếu trời thương ta, cho hai ta đồng chết thì gặp nhau dưới suối vàng, cũng vui thú biết chừng nào!

Nhưng đau đớn quá! Mẹ mày e chết trước ta. Ta hiện bây giờ nếu không chép sơ những việc đời mẹ mầy cho chúng con nghe, thời chúng con rồi đây không biết rõ mạ mầy là người thế nào, có lẽ bảo mẹ ta cũng như người thường thảy cả.

Than ôi! Ta với mẹ mầy, vợ chồng thật ngần năm mươi năm quan giải gần bốn mươi năm. Khi sống, chẳng mấy hồi tương tụ, mà tới chết lại chỉ tin tức nghe hơi!

Chúng mày làm con người, đã biết nỗi đau đớn của cha mày với mẹ mày, chắc lòng mày còn thế nào mà an thích được.

Bây giờ ta từ lúc sắp sửa chết, mà chưa chết, thời chí của cha mày đã hư những bao giờ kia!

Cha ta với tiền nghiêm của mẹ mày xưa, thảy nhà tho cũ, rất cgăm giữ đạo đức xưa. Mẹ mày lớn hơn ta một tuổi. Hai ông đính thông gia với nhau từ khi con còn lên một.

Tới năm mẹ mày hai mươi ba tuổi, về làm dâu nhà ta. Lúc ấyỏ ta đã tám năm rồi, trong nhà duy có cha già với em gái bé. Ta vì sanh nhai bằng nghề dậy trẻ, luôn năm ngồi quận ở phương xa, cái gánh sớm chiều gạo nước gửi vào trên vai mẹ mầy. Cha ta đối với con dâu rất nghiêm thiết, nhưng chẳng bao giờ có sắc giận với mẹ mày. Cha ta hưởng thọ được 72 tuổi, nhưng bị bịnh nặng từ ngày 60. Liên niên trong khoảng 10 năm, những công việc thuốc thang hầu hạ bên giường bịnh, cho đến các việc khó nhọa nặng nề mà người ta không thể làm được, thảy đều tay mẹ mầy gánh vác.

Kể việc hiếu về thờ ông cha như mẹ mày, thật là một việc hiếm có. Trước phút cha ta lâm chung trước vài phút đồng hồ. gọi mẹ mày bồng mày đến cạnh giường nằm, chúc ta rằng:

 – Ta chết rồi mày phải hết lòng, hết sức dạy cháu ta. Và hết sức thương vợ mày. Vợ mày thờ ta rất hiếu, chắc trời cũng làm phúc cho nó.

Xem lời lâm chung của cha ta như thế, cũng dư biết nhân cách của mẹ mày rồi. Năm cha ta sáu chục tuổi, còn hiếm cháu trai, vì ta lại là con độc đinh, nên cha ta càng khát cháu lắm. Mẹ mày muốn được chóng sanh trai cho bằng lòng cha, nên gấp vì ta cưới thứ mẫu này.

Chẳng bao lâu mà em mày sinh. Trong lúc thằng cu mới ra đời, mẹ mày gánh việc ôm úp, đùm bọc hơn một tháng.

Cha ta được thấy cháu đầu, hoan hỷ quá chừng, thường nói với ta rằng:

– Ta nay chỉ còn có việc chết chưa nhắm mắt, là mày chưa trả cái nợ khoa danh mà thôi.

Mẹ mày nhân có cái nhơn đức thứ mẫu này, thân yên hơn chị em ruột. Kẻ đức nhơn ái với người phận em, như mẹ mày cũng ít có.

Cứ hai chuyện trên, bảo mẹ mày là mẹ hiền, về thời cựu chắc không quá đáng. Nhưng mà bắt buộc cho ta trọn đời nhớ luôn luôn, thì lại vì có một việc.

Nguyên lại nhà ta chỉ có bốn tấm phên che suông, chẳng bao giờ chứa gạo tới hai ngày. Nhưng vì trời cho ta cái tính quái đặc, thích khoản khách hay làm ơn. Hễ trong túi được đồng tiền, thấy khách hỏi tức khắc cho ngay.

Thường tới khi từ trường quận về nhà, khách hoặc năm sáu người có khi mười người chẳng hạn. Nhưng chiều hôm, sớm mai, thiếu những gì tất hỏi mẹ mày.

Mẹ mày có gì đâu! Chỉ dựa vào một TRIỀNG HAI THÚNG, từ mai tới hôm, mà cũng nghe chồng đòi gì thì có nấy.

Bổng (lương) dậy học của ta thuy khá nhiều, nhưng chưa đồng xu nào mà tay mẹ mày được xài phí.

Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn, khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. Từ đã ba mươi sáu (36) tuổi, cho tới ngày xuất dương, những công việc kinh dinh việc nước, mẹ mày ngầm biết thảy, nhưng chưa từng hé răng một lời.

Duy có một ngày kia, ta tình cờ ngồi một mình, mẹ mày đứng dựa cột kề một bên ta mà nói:

– THẦY TOAN BẮT CỌP (Pháp thực dân) ĐÓ MÀ? CỌP CHƯA THẤY BẮT, MÀ NGƯỜI TA ĐÃ BIẾT NHIỀU, SAO THẾ?

Mẹ mày tuy có nói câu ấy, mà lúc đó ta làm ngơ, ta thiệt dở quá! Bây giờ nhắc lại trước khi ta xuất dương, khoảng hơn 10 năm nghèo đó mà bạn bè nhiều: khốn cùng mà chí vững, thiệt một phần nữa là nhớ ơn mẹ mày.

Tới ngày ta bị bắt về nước, mẹ mày được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng hồ, chỉ có một nói với ta rằng:

 – Vợ chồng ly biệt nhau hơn 20 năm, nay được một lần gặp mặt thầy, torng lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong cho thầy giữ được lòng xưa, thầy làm những việc gì mặt thầy, thầy chớ nghĩ tới vợ con.

Hỡi ôi! Câu nói ấy bây giờ còn phảng phất ở bên tai ta, mà ta té ra chầy chà năm tháng, chẳng một việc gì làm, chốc đã chẵn mười năm. Phỏng khiến mẹ mày chết trước ta, trách nhiệm của ta e còn nặng thêm mãi mãi.

Suối vàng quang cách, biết lối nào thăm,

Đầu bạc trăm năm, còn lời thề cũ.

Mẹ mày thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ mày!!

“CÔNG NHĨ VONG TƯ” chắc mẹ mày cũng lượng thứ cho ta chứ.

Rút trong TÂN SANH PHỤ NỮ năm 1953 của Ô. TÙNG LÂM Lê cương Phụng, cử nhân Hán tự kể.

error: Content is protected !!