Lộng nguyệt thành tiên

Truyện đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm, Số 12, ngày 23 Janvier 1902

  • Ghi chú: các chữ màu đỏ và … là thiếu hoặc chưa chính xác do bản chụp báo hơi mờ. Tôi sẽ tìm bản chụp khác để đối chiếu và chỉnh sửa. Xin quí vị thông cảm.
  • Các chữ trong ngoặc đơn (…) là chữ nguyên gốc khi báo đăng. Do cách dùng dấu hỏi – ngã và ”chính tả” thời đó có khác so với hiện tại nên tôi có sửa khi đánh máy.

Tên Thượng Sanh người núi Thái Sơn; ở riêng mọt mình nơi thơ phòng; Khi đêm thu, trăng sáng lóa trời, sông trong vẻo nước; mơ màng hửng tiết, phưởng (phưởn) phất nhớ hoa. Đỗng đâu một người con gái vượt vách dòm, cười mà rằng: ”Thầy tú mơ tưởng điều (đều) chi thức khuya lắm vây?” Chàng xem đẹp mắt diện mạo như tiên, mau ôm riết vào lòng, hun (hung) hít ngỏa nguê một sạt.

Nàng xưng rằng Hồ thị Tam Thơ, còn chỗ ngụ hỏi hoài, cười, không nói.  Chàng cũng chẳng hỏi dai, cứ một việc hẹn hò yêu mến; từ đây mỗi tối đến thăm, chẳng bỏ đêm nào vắng (vắn) mặt, có một đêm kia, hai người nằm chung mà chơi, chàng ưa lắm cứ ngó ngay mặt hoài, không nháy mắt.

Nàng hỏi rằng: ”Làm sao ngó thiếp chăm chăm vậy?”

Chàng đáp rằng: ”Anh nhìn bậu vì Bích Đào Hồng Dược, dẫu ban đêm xem cũng không nhàn’.”

Nàng đáp rằng: ”Thiếp quê hèn, còn mắc (mắt) đẹp chừng ni, ví như mà thấy đặng em tôi, nó thứ tư, thấy đến nó phải chóng mày chóng mặt sao?”

Chàng nghe nói, tình càng thêm động, tiếc (tiết) chưa tường nhan sắc dường nào. Anh ta mới thăm thỉ ớn ỷ; xin gặp mặt một phen, kẻo nghe nói chưa xem lòng ức.

Đêm sau hai chị em dắt (giắc) nhau đến Tứ Thơ tác ước cập kê, bề nhan sắc xem ra thiệt đẹp, ví như đào hạnh mới khai, bì kịp (kiệp) mai liên hàm tiếu, thiệt là xin tốt lắm, chàng thấy mừng, bèn mời ngồi. Tam Thơ với Sanh ngó nhau mà cười, còn Tứ Thơ tay vò dằn mảo chẳng nói năng chi.

Một lát (lác) Tam Thơ kiếu về, nàng em dợm đi về theo, thì chàng Sanh mau nắm tay kéo lại và liếc Tam Thơ mà rằng: ”Xin khanh một tiếng nói dùm cũng sánh ngàn vàng giúp bạn.”

Tam Thơ mỉm cười rằng: ”Tình lang lòng rất gấp, khuyên em ở một giây.”

Tứ Thơ làm thinh (thin), nàng chị đi về.

Còn lại hai người, mới vui say một giấc vu sơn, ân ái hai lòng đầy đặng đến lúc dạn (dạng) mặt rồi, Tứ Thơ mới nó rằng mình là hồ sanh ra, tuy vậy chàng mê sắc dầu hồ cũng không kiêng (kiên).

Tứ Thơ nói: ”Chị tôi lòng lang độc đã giết hết ba người, nếu chàng lầm ắt phải thác oan (hoan), vì tôi thấy thương tôi không nỡ để người bị hại.

Chàng nghe sợ hãi, mới hỏi có phép cứu xin cứu dùm.

Tứ Thơ rằng: ”Thiếp tuy hồ, chớ có học phép tiên, tôi vẽ cho một cái phù, dán nơi cửa thì không dám tới.” Cho phù rồi đi về.

Đến khi Tam Thơ đến thấy phù sợ bèn trở về, giận mà rằng: ”Em mê bạn mới đổi lòng, chị nguyện không điểm chỉ nữa”.

Tuy vậy chớ hai người có túc phận hữu duyên, há nỡ hẹp lòng thù oán (hoán). Cách ít bữa Tứ Thơ đi khỏi hẹn đêm sau thì tới.

Chàng vừa ra cửa thấy một người con gái đẹp ở trong bụi rậm đi ra, đi lại gần Sanh mà rằng: ”Thầy Tử ưa chi hồ ũ mụi, bợm không tiền cẳng giúp đặng đều chi, thiếp nay cho đó một quan, xin lấy đặng dùng bút mực, thầy về trước sửa sang, tôi sau đem vật thực, đặng một bữa hoan tình hỉ lạc, kẻo trong lòng mơ ước phong vân.”

Thượng Sanh về trước, kế một lát quả nhiên, thị nọ không sai lời, bưng một mâm đồ ăn đến để trên bàn, ê hề thịt nướng gà quay, bề bộn trà, ngon rượu bọt, hai người mới xúm lại lấy dao nhồi cắt một miếng uống một chén. Vui cười giỡn (dởn) cợt ngỏa nghuê, tiệc bãi (bải) tắt (tắc) đèn vào trướng; xong việc ngủ quên tới sáng mới dậy, hai người ngồi kế nhau nơi giường (dường), lấy chơn đổi dép mà chơi, bỗng (bổng) đâu nghe có tiếng người ngó ra thấy đã vào trướng, là hai chị em Hồ Thị, người con gái ấy thấy sợ thất kinh vụt chạy bỏ dép nơi sàng, hai chị em rượt (rược) theo mà nhiếc (nhiết) rằng: loài Hồ Ngựa sao dám đến đây, lên chỗ người nằm mà nằm, chạy theo một hỗi, mới trở lại.

Tứ Thơ dặn Sanh mà rằng: ”Chàng không xét xa, lại tư tình với hồ ngựa, vậy thì tụ hậu đừng có gần tôi nữa” nói rồi mặt dàu dàu bỏ muốn đi. Chàng buồn rầu năn (năng) nỉ, nhở có Tam Thơ can (cang) gián (dán) mới bót giận, rồi tới lui thương yêu nhau như khi trước.

Một ngày kia có một người thuật sĩ cỡi lừa đến gõ cửa mà rằng: ”Tôi đi cùng mà tìm kiếm (kím) yêu vật, mới gặp đặng nó ở chỗ ni.”

Người cha Thượng Sanh nghe lời nói lạ thường, mới hỏi lại, thì người khách thưa rằng: ”Tôi thường châu lưu tứ phương luyện thành thuật pháp, trong một năm, hết mười tháng dư tám chín lần bỏ nhà mà đi, bị yêu vật nó giết em tôi, khi về đến nhà giận lắm, thệ kiếm cho đặng, đặng giết nó đi, kiếm cùng không đặng, may đến đây là điềm may cho trong nhà, nếu không gặp, thì nó giết như em tôi vậy.

Lúc đó Sanh với Tứ Thơ ở trong phòng, cha mẹ nghe nói xét coi, mới cả sợ bèn rước khách vào xin làm phép lạ. Khác bày ra hai cái bầu trên miệng bầu có phù chú, một giây lát thấy khói đen bay vần xung quanh, rồi chung tuốt vô bầu, khách mừng cười nói bắt hết trọn ổ rồi liền lấy bong bóng heo bịt (bịch) miệng hồ lại chặt lắm. Cha Thượng Sanh mừng cầm người khách ở ăn cơm.

Còn chàng buồn vì mất bạn, mới lại một bên hồ, nghe tiếng Tứ Thơ ở trong hồ nói rằng: ”Để ngồi xem chẳng cứu. Chàng sao nỡ phụ tôi?

Sanh nghe cảm động, muốn gỡ mà dính cứng, gỡ không đặng. Tứ Thơ nói rằng: ”Chớ gỡ, xin nhổ cái cờ bùa đi, và lấy kim xoi lổ bong bóng thì tôi ra đặng”.

Sanh y như lời, quả thấy một điệu khói trắng ở trong lổ hồ chun ra bay riết lên mây.

Người khách ra thấy cây cờ ngã xuống đất, thất kinh nói rằng: ”Đã trốn rồi, chắc là cậu ở nhà cứu nó,” lại bưng bầu lắc mà nghe, lại nói rằng: ”May chết hết một con, còn con sống ắt chưa đến hồ, thôi tha hẳn cũng đặng, nói rồi quẩy bầu liền đi.

Khi sau Thượng Sanh ra đồng coi cho chúng gặt lúa, thấy Tứ Thơ ngồi dưới gốc cây, Sanh lại nắm tay han hỏi?

Nàng thưa rằng: ”Biệt nhau hơn mười năm rồi, tôi luyện tiên đơn đã thành, chính nhớ nghĩa chàng phải đến viếng thăm.”

Sanh muốn dắt đi về nhà. Nàng bèn thưa; thiếp nay chẳng phải như ngày xưa, cách trần tục nhuốm vào không đặng, ngày nay cách biệt, hậu nhựt tương phùng”. nói rồi biến mất.

Lại hai mươi năm sau, Sanh đang ngồi một mình thấy Tứ Thơ đi vào, mừng bèn nói chuyện hỏi thăm. Nàng nói: ”Tôi nay vào bộ tiên nương, lẽ chẳng đến phàm trần chi nữa, bởi cám tình xử hậu cùng tôi, nay đến tỏ căn duyên đã dứt. Chàng mau kha xử phân gia sự, khuyên hãy dừng thương tiếc làm chi, thiếp giúp chàng dặn dự quỉ tiên, sau thong thả tiêu diêu tự lạc.”

Nói rồi biến đi mất. Sau Sanh thác rồi, có một người bạn thiết nghĩa là Lý Văn Ngọc, thường thường gặp mà trò chuyện hoài mới biết là hóa tiên.

Cơn vui âu hẳn đào nguyên nữ,

Trọn nghĩa cùng nhau mới rõ lòng;

Một phút làm ơn vì những thuở,

Ngàn năm may đặng dựa tiên phong.

LƯƠNG HÒA QUI

 

Viết một bình luận

error: Content is protected !!